Đề cương tuyên truyền: 91 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930-03/02/2021)
I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI LÀ BƯỚC
NGOẶT TO LỚN TRONG LỊCH SỬ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Bối cảnh lịch sử ra đời Đảng Cộng sản
Việt Nam
1.1. Bối cảnh quốc tế
Từ cuối thế kỷ XIX,
chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc.
Các nước tư bản đế quốc thực hiện chính sách: bên trong tăng cường bóc lột nhân
dân lao động, bên ngoài gia tăng các hoạt động xâm lược và áp bức nhân dân các
dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm đời sống nhân dân lao
động trên thế giới trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với
chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, với thắng
lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác-Lênin từ lý
luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người;
là ánh sáng soi đường cho các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản
(Quốc tế III) ra đời đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng
trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2. Bối cảnh trong nước
- Năm 1858, thực dân
Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước thiết lập bộ máy thống trị, biến nước ta từ
một quốc gia phong kiến thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc
nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”. Chính sách
thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.
* Về chính trị, thực
dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội, đối
ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, đó là, một chính sách chuyên chế
điển hình, chúng đàn áp đẫm máu các phong trào và hành động yêu nước của người
Việt Nam, mọi quyền tự do bị cấm. Chúng chia rẽ ba nước Đông Dương, chia Việt
Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai
trị riêng.
* Về kinh tế, thực
dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách bóc lột tàn bạo,
cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ vét tài nguyên, cùng nhiều hình
thức thuế khóa nặng nề, vô lý; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống
đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.
* Về văn hóa, thực
dân Pháp tiến hành chính sách ngu dân, chúng bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng của
văn hóa tiến bộ trên thế giới, khuyến khích văn hóa độc hại,
xuyên tạc lịch sử, giá trị văn hóa Việt Nam và dung túng, duy trì các hủ tục
lạc hậu.
- Sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội
diễn ra ngày càng gay gắt
Phần lớn giai cấp địa chủ cấu kết
với thực dân Pháp ra sức bóc lột nông dân; một bộ phận địa chủ có lòng yêu
nước, đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác
nhau. Các giai cấp, tầng lớp khác
trong xã hội Việt Nam đều mang thân phận người dân mất nước và đều bị thực dân
áp bức, bóc lột, chèn ép nên đều căm phẫn thực dân Pháp. Do đó, mẫu thuẫn cơ
bản trong xã hội Việt Nam lúc này, không chỉ là mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ
yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, mà đã nảy sinh mâu thuẫn
ngày càng gay gắt giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.
- Các cuộc khởi nghĩa
và phong trào đấu tranh của quần chúng chống thực dân Pháp xâm lược diễn ra
mạnh mẽ nhưng đều bị thất bại, xã hội Việt Nam rơi vào khủng hoảng về đường lối
cách mạng
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp,
các cuộc khởi nghĩa và các phong trào đấu tranh của nhân dân ta diễn ra liên
tục và mạnh mẽ. Tuy nhiên do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực
lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Phong trào yêu nước
theo ý thức hệ phong kiến như phong trào Cần Vương đã chấm dứt với sự thất bại
của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo (năm 1896); phong
trào nông dân Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng không giành được
thắng lợi. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan
Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi
nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại,… Cách mạng Việt Nam
chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
2. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước và
chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
- Giữa
lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu
nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 05/6/1911,
người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này)
ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Với khát
vọng cháy bỏng giành độc lập tự do cho dân, cho nước, Nguyễn Tất Thành đã bất
chấp mọi nguy hiểm, gian khổ, đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ
và đã rút ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ
nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước
thuộc địa.
- Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành
tham gia Đảng Xã hội Pháp. Tháng 6 năm 1919, với tên mới là Nguyễn Ái Quốc,
Người thay mặt những người yêu nước Việt Nam gửi đến Hội nghị Véc-xây “Bản yêu
sách của nhân dân An Nam” gồm 08 điểm đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các
quyền tự do dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
- Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được
đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa” của Lênin đăng trên báo Nhân đạo và cũng chính từ
đây đã giải đáp cho Người con đường đấu tranh giành độc lập tự do thực sự cho
dân tộc, cho đồng bào mình.
- Từ ngày 25 đến 30/12/1920, Nguyễn
Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp với tư cách đại biểu
Đông Dương. Kết thúc Đại hội ngày 30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tán thành thành
lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng
sản Pháp, và cũng là người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
- Từ năm 1921-1930, Nguyễn Ái Quốc
vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp, nghiên cứu bổ sung và hoàn
thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Người tập trung chuẩn bị về tổ
chức và cán bộ, lập ra Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên (năm 1925), tổ chức
nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc), đồng thời, gửi cán bộ đi
học tại trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường Lục quân Hoàng Phố
(Trung Quốc).
Nhờ hoạt động không mệt mỏi của Lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà đến cuối năm 1929,
đầu năm 1930, những điều kiện cho sự ra đời của một Đảng vô sản ở Việt Nam đã
chín muồi.
3. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đáp ứng những đòi
hỏi của thực tiễn cách mạng, ngày 17/6/1929, Kỳ Bộ
Bắc Kỳ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã thành lập Đông Dương Cộng
sản Đảng tại Hà Nội. Tháng 11/1929, các đồng chí Tổng bộ và Kỳ Bộ Nam
Kỳ của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên quyết định thành lập An Nam
Cộng sản Đảng. Ngày 01/01/1930, những đại biểu ưu tú của Tân Việt cách mạng
Đảng (một tổ chức tiền thân của Đảng) đã họp và thành lập Đông Dương
Cộng sản Liên Đoàn ở Trung Kỳ. Tuy
nhiên, ở một nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán
về lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành động. Trách
nhiệm lịch sử là phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất, chấm dứt tình trạng
chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt Nam.
- Từ ngày 06/01 đến ngày 07/02/1930,
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp
ở bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản. Trong Hội nghị thành lập Đảng,
đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 05 điểm lớn cần thảo luận và thống nhất, trước
hết là tự phê bình và phê bình, “Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ,
thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”. Hội
nghị đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là
Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời
kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản
Việt Nam gửi đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả
đồng bào bị áp bức, bóc lột nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó, Chánh cương vắn
tắt của Đảng và sách lược vắn tắt của Đảng phản ánh nội dung cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản
có ý nghĩa như Đại hội thành lập Đảng.
- Tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã quyết nghị lấy ngày 03 tháng 02
dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lậpĐảng Cộng sản Việt Nam.
4. Ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng Cộng sản
Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với
Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam -
thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh
đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung cơ bản nhất của con
đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của lịch sử và
trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực
lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.
- Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam,
quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và
tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả
của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng trong cả nước;
sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết nhất
trí của những chiến sĩ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là
thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành,
đủ sức lãnh đạo cách mạng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và
việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng
thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang;
đồng thời, đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân
tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.
II. NHỮNG MỐC SON CHÓI LỌI VÀ BÀI HỌC KINH
NGHIỆM TRÊN CHẶNG ĐƯỜNG 91 NĂM VINH QUANG CỦA ĐẢNG
1. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính
quyền (1930-1945)
Sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo
nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành
chính quyền với 03 cao trào cách mạng có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng lợi của
cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đó là:
- Cao trào cách mạng 1930-1931
mà đỉnh cao là phong trào XôViết-Nghệ Tĩnh: Làm rung chuyển chế độ thống trị
của đế quốc Pháp và tay sai. Dưới sự lãnh đạo của Đảng quần chúng cách
mạng đã vùng dậy trừng trị bọn cường hào, phản động, tay sai thực dân Pháp,
thành lập chính quyền cách mạng ở một số nơi theo hình thức XôViết. Cao
trào cách mạng 1930-1931 đã khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam do Ðảng đề
ra là đúng đắn và để lại những bài học quý báu về xây dựng liên minh công-nông,
về xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, về phát động phong trào quần chúng đấu
tranh giành và bảo vệ chính quyền.
- Cao trào cách mạng
đòi dân sinh, dân chủ (1936-1939): Bằng sức mạnh đoàn kết của quần chúng, dưới
sự lãnh đạo của Đảng đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu
sách về dân sinh, dân chủ; quần chúng được giác ngộ về chính trị và trở thành
lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng; Đảng đã tích lũy được nhiều bài học
kinh nghiệm trong việc xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, kinh nghiệm tổ
chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp...
- Cao trào cách mạng giải phóng dân
tộc (1939-1945) dưới sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết
của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng với sự đoàn kết hăng hái,
chiến đấu ngoan cường và hy sinh to lớn của biết bao đảng viên cộng sản, chiến
sĩ và đồng bào yêu nước đã kết thúc thắng lợi bằng cuộc Cách mạng tháng Tám năm
1945.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám
năm 1945 đã phá tan sự thống trị của thực dân gần 100 năm và lật đổ chế độ
phong kiến đè nặng lên nhân dân ta mấy mươi thế kỷ, mở ra bước ngoặt vĩ đại của
cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới; kỷ nguyên độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành
người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba
Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Khái quát ý nghĩa
lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Chẳng những giai cấp lao động và Nhân dân Việt Nam ta có thể tự
hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự
hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc
địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền
toàn quốc”.
2. Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân
tộc và thống nhất đất nước(1945-1975)
2.1. Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách
mạng, toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945-1954)
- Trong những năm 1945-1946, Đảng ta
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng và củng cố vững chắc chính
quyền nhân dân, bầu cử Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (06/01/1946);
xây dựng và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên (09/11/1946); chăm lo xây dựng
chế độ mới, đời sống mới của nhân dân, chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại
xâm; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam bộ và Nam Trung bộ với sự
ủng hộ và chi viện của cả nước; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng,
bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng tháng Tám; đồng thời, thực hành sách
lược khôn khéo, đưa cách mạng vượt qua những thử thách hiểm nghèo. Đảng ta đã
chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm
lược của thực dân Pháp trên phạm vi cả nước.
- Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược
nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát
động toàn quốc kháng chiến với quyết tâm “Chúng ta thà hy sinh tất cả
chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Bằng đường lối
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời,
tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân
ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp giành thắng lợi
mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động
địa cầu”, buộc Chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ (20/7/1954) chấm
dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta.
2.2. Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954-1975)
- Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký
kết(20/7/1954), miền Bắc hoàn toàn giải phóng, nhân dân ta bắt
tay vào xây dựng, khôi phục kinh tế - văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong
khi đó ở miền Nam, đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, hất chân thực dân
Pháp, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng. Nhiệm
vụ của Đảng ta trong giai đoạn này hết sức nặng nề, đó là, phải lãnh đạo cách
mạng Việt Nam tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược gồm cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
- Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân nêu cao
quyết tâm đánh Mỹ, thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân bằng tầm cao khoa học
và nghệ thuật. Với một đế quốc hùng mạnh bậc nhất thế giới, Đảng ta chủ trương
đánh lâu dài; kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và hoạt động
binh vận; kết hợp tiến công và nổi dậy, tiến hành đấu tranh trên cả ba vùng
(đồng bằng, thành thị và miền núi); kết hợp mặt trận quân sự, chính trị với mặt
trận ngoại giao; phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách
mạng; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và sức mạnh thời đại. Bằng
đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh thần đấu tranh anh dũng kiên
cường, bất khuất, bất chấp mọi gian khổ hy sinh của nhân dân ta, cùng với sự
giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình
trên thế giới, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược
chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao
là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân
tộc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc (30/4/1975). Đây là một trong
những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc, là một sự kiện có tầm quốc tế và
có tính thời đại sâu sắc.
- Song
song với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền
Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế - xã hội, tiến hành cải tạo
xã hội chủ nghĩa và đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sau 21 năm xây
dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc đã giành được những thành tựu quan trọng, chuẩn
bị cơ sở vật chất, kỹ thuật ban đầu cho chủ nghĩa xã hội; vừa sản xuất, vừa
chiến đấu và chi viện sức người, sức của, hoàn thành vai trò hậu phương lớn đối
với tiền tuyến lớn miền Nam.
3. Thời kỳ tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa trên cả nước, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1975 đến nay
3.1. Từ năm 1975 đến năm 1986
- Sau chiến tranh giải phóng miền Nam,
thống nhất Tổ quốc, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn, Đảng đã lãnh đạo nhân
dân vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh chống xâm
lược biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia; đồng thời, tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa
xã hội, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải thiện đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Tuy nhiên, việc duy trì lâu dài
mô hình, cơ chế kinh tế tập trung bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ những
hạn chế, nhược điểm; việc hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội
chủ nghĩa, có lúc, có nơi đã mắc sai lầm khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó
cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế -
xã hội trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Trước những thách thức của thời kỳ
mới, Đảng ta đã tổng kết thực tiễn, tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới, ban
hành Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 20/9/1979 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV)
về “Phương hướng nhiệm vụ phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và
công nghiệp địa phương”; Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày 13/1/1981 của
Ban Bí thư về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản
phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”;
Quyết định số 25/QĐ-CP, ngày 21/01/1981 của Chính phủ về đổi mới quản lý kinh
tế quốc doanh; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khóa V (tháng 6/1985) thừa
nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa; Kết luận của Bộ
Chính trị (tháng 8/1986) về 03 quan điểm kinh tế trong tình hình mới...
3.2. Từ năm 1986 đến nay
- Trên cơ sở đánh giá tình hình đất nước
và qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm, Đại hội VI của Đảng (tháng
12/1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra bước ngoặt quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Trước
bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ thống xã hội
chủ nghĩa thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, Đại hội VII của Đảng (tháng
6/1991) khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt để trên các lĩnh vực với
những bước đi, cách làm phù hợp và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội
đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, xác định những quan điểm và phương hướng phát triển đất nước,
khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
- Các
nghị quyết của Đảng từ Đại hội VIII đến nay tiếp tục khẳng định sự kiên định,
kiên trì thực hiện đường lối đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Hệ thống
quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới không ngừng được bổ
sung và phát triển. Ðảng Cộng sản Việt Nam từng bước hoàn thiện và cụ thể
hóa toàn diện các định hướng đổi mới, phát triển, xác định rõ trọng tâm trong
từng giai đoạn. Ban Chấp hành Trung ương Ðảng các khóa đã ban hành nhiều nghị
quyết về những vấn đề quan trọng; lãnh đạo để Quốc hội không ngừng bổ sung,
hoàn thiện, thể chế hóa Hiến pháp, hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý ngày
càng đồng bộ, phù hợp cho quá trình đổi mới; lãnh đạo Chính phủ cụ thể hóa
thành các cơ chế, chính sách và giải pháp quản lý, quản trị phát triển đất
nước, bảo vệ Tổ quốc.
- Qua gần 30 năm thực hiện Cương
lĩnh 1991 và 36 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo,
với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta vượt qua khủng hoảng kinh
tế đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; đang đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Văn
hóa - xã hội có bước phát triển, công tác xóa đói giảm nghèo đạt được những
thành tựu quan trọng, sớm đạt được nhiều chỉ tiêu phát triển thiên niên kỷ của
Liên Hợp Quốc, được quốc tế đánh giá cao. Diện mạo đất nước và đời sống của
nhân dân có nhiều thay đổi. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng - an ninh
được tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Quan hệ đối
ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, Việt Nam đã có quan hệ với
189 quốc gia và vùng lãnh thổ. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày
càng mở rộng. Ðại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Xây dựng
Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
đã và đang đạt được một số kết quả tích cực. Số lượng
đảng viên không ngừng gia tăng. Từ Đại hội lần thứ I (năm 1935) Đảng ta có
khoảng 500 đảng viên đến Đại hội lần thứ XII (năm 2016) Đảng ta có hơn 4,5
triệu đảng viên và năm 2021 đã có hơn 5,1 triệu đảng viên. Đa số cán bộ, đảng
viên và nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới
và triển vọng phát triển của đất nước. Nhiều đảng viên đã để lại nhiều tấm
gương tốt thể hiện tinh thần tiên phong và tính gương mẫu.
Đặc biệt, là Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư (khóa XII) và các cấp ủy đảng trong toàn
Đảng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thành công Đại hội Đảng bộ các cấp,
nhiệm kỳ 2020-2025, tiến tới chào mừng thành công Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII của Đảng.
- Những thành tựu qua 36 năm thực
hiện đường lối đổi mới đất nước đã tạo đà cho sự phát triển trong những năm
tiếp theo; đồng thời, cũng là minh chứng sinh động khẳng định vai trò lãnh đạo
đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta.
4. Những bài học kinh nghiệm của Đảng Cộng
sản Việt Nam
Thực tiễn phong phú của cách mạng
Việt Nam trong suốt 91 năm qua, Đảng ta đã tích luỹ và đúc rút được nhiều bài
học kinh nghiệm lớn:
Một là, nắm
vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ
chặt chẽ với nhau.
Hai là, sự
nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân
dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải
xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng
là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân
sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ
xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Ba là, không
ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân,
đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức
mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết,
đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công.
Bốn là, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh
quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự
chủ, nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời,
tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm là, sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển
chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ,
nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức
giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương
của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và
chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa,
biến chất của cán bộ, đảng viên.
III. PHÁT HUY TRUYỀN
THỐNG VẺ VANG, TÍCH CỰC XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH VỮNG MẠNH, ĐẤT NƯỚC NGÀY CÀNG GIÀU ĐẸP
1.
Những truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng ta xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp, đó
là:
- Truyền thống trung thành vô hạn
với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Chỉ có đi theo con đường cách mạng mà Đảng ta và Bác Hồ đã lựa chọn
thì cách mạng Việt Nam mới giành được thắng lợi trọn vẹn, đất nước ta mới thật
sự được độc lập; dân tộc ta mới thật sự được tự do; nhân dân ta mới có cuộc
sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.
- Truyền thống giữ vững độc lập, tự
chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin, tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức
thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng. Trong mỗi giai đoạn, Đảng ta luôn
thấm nhuần quan điểm chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo, xuất
phát từ thực tiễn Việt Nam để xác định phương hướng, nhiệm vụ, phương pháp của
cách mạng Việt Nam.
- Truyền thống gắn bó máu thịt giữa
Đảng và nhân dân, luôn luôn lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu
phấn đấu. Nhân dân ta đã nuôi dưỡng và bảo vệ Đảng từ những ngày còn trứng
nước, hết lòng tin yêu Đảng, ủng hộ và ra sức phấn đấu thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng. Sức mạnh vô tận của nhân dân làm nên sức mạnh vô địch của
Đảng; nguồn gốc sức mạnh của Đảng là ở sự
gắn bó máu thịt với nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.
- Truyền thống đoàn kết thống nhất,
có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê
bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí. Trải qua những thử thách khắc
nghiệt trong nhà tù đế quốc, trước lưỡi lê, họng súng của kẻ thù hay trên chiến
trường lửa đạn, những người cộng sản Việt Nam đã nêu những tấm gương sáng ngời
về tinh thần đoàn kết gắn bó, thương yêu nhau; về tình đồng chí, đồng đội.
Chính tình nghĩa cộng sản đó đã gắn kết những người cách mạng Việt Nam thành
một đội tiên phong gang thép được nhân dân tin yêu, bạn bè ngưỡng mộ, kẻ thù
khiếp sợ; tạo thành sức mạnh để Đảng ta vượt qua mọi thử thách, hy sinh, giữ
vững niềm tin và giương cao ngọn cờ lãnh đạo.
- Truyền thống đoàn kết quốc tế thủy
chung, trong sáng dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả. Đây là cơ sở
vững chắc để Đảng ta hình thành và thực hiện thành công đường lối đối ngoại
đúng đắn qua các thời kỳ, phát huy đến đỉnh cao sự kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại, đưa cách mạng Việt Nam liên tục phát triển.
Những truyền thống quý báu của Đảng
ta là sự kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp
công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân quốc tế trên một tầm cao mới của thời
đại; là sức mạnh bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng; là kết quả của quá trình
vun trồng, xây đắp bền bỉ, là sự hy sinh xương máu, phấn đấu không mệt mỏi của
các thế hệ cán bộ, đảng viên.
Những truyền
thống ấy của Đảng có ý nghĩa dân tộc và ý nghĩa quốc tế sâu sắc, thể hiện tinh
thần cách mạng triệt để. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nắm bắt đúng xu thế
phát triển của thời đại, gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách
mạng thế giới, giải quyết đúng đắn vấn đề độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã không ngừng đưa ra
những quyết sách phù hợp, đáp ứng yêu cầu lịch sử, vượt qua mọi khó khăn, thử
thách, đưa nước nhà đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
2. Tích cực xây dựng Đảng ta trong
sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; xây dựng đất
nước ngày càng giàu đẹp, văn minh
- Những thắng lợi vĩ đại trong 91
năm qua kể từ ngày có Đảng lãnh đạo là minh chứng sinh động nhất về năng lực
lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng và sức mạnh to lớn của nhân dân ta. Đảng
đã không ngừng tự đổi mới, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trước bối cảnh
thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Đảng ta đã dành không ít thời gian và
công sức cho công tác xây dựng Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt,
được đặt ra trong nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng.
Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay,
với quyết tâm chính trị cao, Ban Chấp hành Trung ương đã bám sát 06 nhiệm vụ
trọng tâm của Đại hội, ban hành 04 nghị quyết và 01 quy định để lãnh đạo thực
hiện nhiệm vụ then chốt là xây dựng Đảng. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành
124 văn bản (nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, quy chế, kế hoạch, hướng
dẫn...) về công tác xây dựng Đảng, trong đó, kịp thời ban hành các nghị quyết
để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện những nhiệm vụ mới, quan trọng như: thực hiện
một số mô hình thí điểm về tổ chức bộ máy; việc sắp xếp các đơn vị hành chính
cấp huyện và cấp xã; về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy
chức, chạy quyền; trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là, cán bộ
chủ chốt các cấp; về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng và chiến
lược an ninh mạng quốc gia; về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới... Việc
Trung ương ban hành kịp thời, đồng bộ hệ thống văn bản trên hầu hết trên các
lĩnh vực đã tạo cơ sở chính trị quan trọng để đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng trong tình hình mới.
Sau thời
gian triển khai thực hiện, Công tác xây dựng Đảng đã đạt được những chuyển biến
tích cực và kinh nghiệm quan trọng. Bản lĩnh chính trị, trình độ, năng lực lãnh
đạo của Đảng ngày càng được nâng lên; Đảng luôn vững vàng trước mọi khó khăn,
thách thức trong bối cảnh trong nước, khu vực, thế giới có nhiều diễn biến nhanh
chóng, phức tạp, khó lường và có những quyết sách phù hợp để chỉ đạo xử lý kịp
thời, hiệu quả. Bản chất, lập trường giai cấp công nhân của Đảng được giữ vững.
Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, trước hết,
là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt và người đứng đầu các cấp từng bước được
nâng lên. Tinh thần tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên có tiến bộ;
việc ngăn chặn, xử lý tiêu cực, sai phạm, thực hành tiết kiệm, chống tham
nhũng, lãng phí có chuyển biến rõ nét.Cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã tăng cường chỉ đạo, chủ
động; tập trung kiểm tra, xử lý các tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi
phạm; xử lý cả cán bộ đương chức và đã nghỉ hưu, cả cán bộ cấp cao, cả trong
lực lượng vũ trang; làm một cách bài bản, nghiêm minh từ trên xuống dưới, có
trọng tâm, trọng điểm; kỷ luật đảng đi trước, tạo tiền đề, mở đường cho thanh
tra, điều tra, xử lý hình sự theo pháp luật. Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thể
hiện rõ bản lĩnh, tinh thần kiên quyết, mở rộng phạm vi, đối tượng kiểm tra
xuống đến cả cấp ủy cấp huyện và cơ sở; xử lý dứt điểm nhiều vụ việc phức tạp,
kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều địa
phương. Trong giai đoạn 2013-2020, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành
kỷ luật hơn 131 ngàn đảng viên. Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, đã
thi hành kỷ luật hơn 87 ngàn cán bộ, đảng viên, trong đó, có trên 3.200 đảng
viên bị kỷ luật liên quan đến tham nhũng; đã thi hành kỷluật hơn 110 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý (27 Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương
Đảng, 04 Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị,
hơn 30 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang).
Đây là bước đột phá trong công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng. Tinh thần,
thái độ phục vụ nhân dân, ý thức trách nhiệm của cán bộ đối với công việc được
giao được nâng lên, góp phần khắc phục một bước tình trạng suy thoái về chính
trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Niềm tin của cán bộ và các tầng lớp nhân dân đối với Đảng ngày càng được củng
cố và nâng cao.
Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng
vẫn còn nhiều việc phải làm, nhất là, việc đấu tranh chống sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”; tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa dân... Các thế lực thù địch vẫn
đang tìm mọi cách phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta; chúng ra sức
xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước ta, đánh thẳng vào hệ tư tưởng, Cương lĩnh,
đường lối chính trị của Đảng, kích động, chia rẽ nội bộ Đảng, chia rẽ Đảng, Nhà
nước với nhân dân, hòng làm tan rã Đảng ta, chế độ ta từ gốc, từ bên trong, hết
sức thâm độc và nguy hiểm.
Trong tình hình ấy, chúng ta càng
cần phải tập trung làm tốt hơn nữa công tác xây dựng Đảng. Phương hướng chung
của việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay là phải tiếp tục phát huy truyền
thống tốt đẹp, giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng và tính tiên phong của
Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ
chức, đạo đức, đổi mới phương thức lãnh đạo, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng
với nhân dân, bảo đảm cho Đảng đủ sức lãnh đạo sự nghiệp của đất nước không
ngừng phát triển.
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII)
về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã khẳng định: Phải nhìn thẳng vào sự
thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật. Kết hợp giữa “xây” và “chống”; “xây”
là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp
bách. Kiên quyết, kiên trì thực hiện với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực
lớn; phát huy sự chủ động, sáng tạo và sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính
trị, của nhân dân, trong đó, cán bộ lãnh đạo, quản lý, trước hết, là cán bộ cấp
cao, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp là nòng cốt; thực hiện quyết liệt,
đồng bộ các giải pháp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” có hiệu quả, nhất là những vụ việc gây bức xúc trong dư
luận để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Tăng cường sự lãnh đạo
và đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trước hết là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy và ban thường vụ cấp ủy các cấp. Giữ vững nguyên
tắc, kỷ luật, kỷ cương của Đảng; đề cao pháp luật của Nhà nước. Chủ động phòng
ngừa, tích cực đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù
địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị.
Tự hào với những thắng lợi đã đạt
được, hướng tới tương lai tươi sáng, Đại hội XIII của Đảng có phương châm là: “Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương -
Sáng tạo - Phát triển”, với chủ đề là: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy ý chí,
khát vọng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại;
đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo vệ vững
chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế
kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
với các mục tiêu cụ thể: đến năm 2025: là nước đang phát triển có công
nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030
- kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại,
thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 - kỷ niệm 100 năm thành lập nước: trở
thành nước phát triển, thu nhập cao.
*
*
*
Kỷ niệm 91 năm
Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930-03/02/2021), toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta vô cùng tự hào vì đất nước có một Đảng Cộng sản kiên cường,
trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lãnh đạo nhân dân ta
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên những kỳ tích vĩ đại trong lịch
sử dân tộc, đóng góp xứng đáng vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vì
hòa bình và tiến bộ của nhân loại, đặc biệt là Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa XII) chuẩn bị tổ chức thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII theo
đúng tinh thần Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày30/5/2019của Bộ Chính
trị (khóa XII) về Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Tự hào về
Đảng quang vinh, về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi
người dân Việt Nam ở trong nước và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài càng
thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, nguyện đi theo Đảng, xây dựng Đảng ngày càng
trong sạch, vững mạnh, tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi mục
tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng một nước Việt
Nam phồn vinh, hòa bình và thịnh vượng.
BAN
TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY